Chủ nghĩa độc tôn dị tính - Phần 1: “Người đồng tính, đâu?”


Bài viết đã được đăng trên trang Diễn Ngôn:
http://dienngon.vn/Blog/Article/chu-nghia-doc-ton-di-tinh

(*Dị tính: Thích người khác giới)

Chủ nghĩa độc tôn dị tính (“heterosexism”) là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1971 bởi Craig Rodwell, một nhà hoạt động đồng tính. Vì không phải là thuật ngữ khoa học mà là thuật ngữ ra đời bởi phong trào vận động quyền đồng tính, song tính và chuyển giới (“LGBT”), nên mỗi nhà hoạt động cũng có những cách sử dụng khác nhau của mình.

Trong bài viết này, người viết chia sẻ một số phân tích và biểu hiện thực tế của chủ nghĩa độc tôn dị tính cụ thể trong khung cảnh Việt Nam.

Khái quát về chủ nghĩa độc tôn dị tính

Chủ nghĩa độc tôn dị tính có liên hệ mật thiết với nhiều khái niệm khác, đặc biệt là “chứng ghê sợ đồng tính” (homophobia). Nếu ví chủ nghĩa độc tôn dị tính là một cái bánh, có thể tạm hình dung chiếc bánh đó có các lớp như sau:


Nói một cách ngắn gọn, chủ nghĩa độc tôn dị tính là hệ thống những quan điểm để bảo vệ cho tính dục khác giới, bao gồm ba thành tố cơ bản:
  1. Quan điểm mặc định mọi người là dị tính;
  2. Quan điểm cho rằng dị tính là ưu việt hơn, xem những gì ngoài dị tính đều là thấp kém hơn; và
  3. Tiến tới chối bỏ, tạo sự thiên vị, phân biệt đối xử với những thiểu số tính dục khác.
Như nhiều người vẫn hay nói, xã hội mà chúng ta đang sống là một “xã hội dị tính.” Và sống trong xã hội dị tính đó, các quan điểm về tính dục khác giới chiếm ưu thế. Đôi khi, những quan điểm đó được dùng để biện minh cho sự bất bình đẳng đối với người đồng tính, song tính, chuyển giới hay các xu hướng, bản dạng khác.

Điều cần nhấn mạnh, chủ nghĩa độc tôn dị tính không chỉ là sản phẩm của những người dị tính. Nhiều người LGBT cũng thừa nhận và tuân theo hệ thống quan điểm này. Hệ quả là họ trở nên mặc cảm, chối bỏ bản thân, chối bỏ bản dạng, hạ thấp lòng tự tôn, tự kỳ thị cùng nhiều vấn đề khác.

Mặc định mọi người là dị tính.


Quan điểm mặc định mọi người là đồng tính thể hiện ở hai điểm:
  • Làm ẩn đi việc một người có thể là người đồng tính, và
  • Giảm thiểu tối đa khả năng một người là người đồng tính.
Biểu hiện 1: Làm ẩn đi việc một người có thể là người đồng tính.

Một cách ngầm định, hầu hết mỗi người đều đặt ra những mong đợi định trước cho việc thế nào là một người, một người nữ và điều gì là điều người đó nên làm và không được phép làm. Cụ thể, nếu một người có giới tính sinh học là nam, người đó sẽ được mong đợi để phải nghĩ mình là nam giới, yêu nữ giới và thể hiện một cách nam tính.

Ví dụ 1: Khi gặp một người nữ, người ta thường hỏi ngay “đã có bạn trai chưa”, tương tự sẽ hỏi về tình trạng bạn gái khi gặp một người nam. Việc “làm ẩn” việc một người có thể là người đồng tính đôi khi không phải là một sự cố ý, mà nó đã hằn sâu vào trong hệ thống quan điểm của từng người.

Ví dụ 2: Cô giáo bảo mẫu có thể khen với phụ huynh “bé trai nhà chị đào hoa lắm, các bé gái trong lớp rất thích chơi với cháu.” Điều này phần nào tạo lập nên giá trị sơ khai ở đứa bé, rằng “đào hoa” là một điều được người lớn ghi nhận và tưởng thưởng. Hẳn chẳng có cô bảo mẫu nào lại nói “bé trai nhà chị đào hoa lắm, các bạn trai trong lớp rất thích chơi với cháu.” Đây cũng là biểu hiện của việc “làm ẩn” đi việc một người có thể là người đồng tính.

Biểu hiện 2: Giảm thiểu tối đa khả năng một người là người đồng tính.

Việc mặc định mọi người là người đồng tính có thể dẫn tới: (a) Chối bỏ sự tồn tại của người đồng tính, hoặc (b) Né tránh hết mức việc một người có thể là người đồng tính.

Ví dụ 1: Một người đàn ông từng có vợ/bạn gái, nhưng sau đó có mối quan hệ với một người cùng giới. Ở đây phân tích một cách khách quan có thể thấy ba khả năng:
  • Người này là người dị tính, và đang có trải nghiệm đồng tính và thích nó.
  • Người này là người đồng tính, có trải nghiệm đồng tính và quyết định không kìm nén, giả tạo nữa.
  • Người này người song tính, có trải nghiệm đồng tính và khám phá thêm một khía cạnh tính dục của mình.
Thế nhưng phần lớn mọi người sẽ chọn ngay cách lý giải đầu tiên, chứ không nghĩ tới hai khả năng sau. Mặc dù không phán xét bất kỳ trải nghiệm nào là tốt hay xấu; nhưng cách mà xã hội nhìn nhận “ngày trước nó vẫn có bạn gái mà” đã biểu hiện ra quan điểm mặc định mọi người là dị tính như thế nào.

Ví dụ 2: Nếu một người dị tính trước kia từng thích người cùng giới, thì người ta nghĩ rằng đó chỉ là nhất thời, chưa xác định rõ, không thể chắc chắn họ là người đồng tính. Nhưng nếu một người đồng tính mà đã từng thích một người khác giới, thì người ta sẽ nói ngay “đấy, ngày trước nó vẫn thích người khác giới mà!” và nghĩ rằng họ không thể là người đồng tính. Đây cũng là lỗi rất nhiều nhà tư vấn tâm lý hay mắc phải.

Ví dụ 3: Nhiều phụ huynh như biết con mình là người đồng tính thường liên tục đặt nghi vấn: con mình đang có chuyện gì buồn, con mình dạo này quan hệ bạn bè với ai để “tập nhiễm” chăng, mình đã làm gì sai... để cố gắng chối bỏ việc con mình là người đồng tính.
Ví dụ 4: Đưa ra khái niệm "đồng tính giả" và "đồng tính thật", nhưng luôn có xu hướng tìm mọi lý do, biểu hiện để đưa về kết luận đây chỉ là "đồng tính giả" hoặc cho rằng "đồng tính thật" là rất ít.

Ví dụ 5: Nhiều chuyên viên tư vấn tâm lý khi nhận được câu hỏi “em có phải là người đồng tính” thường “trấn an” ngay khách hàng bằng một loạt lời khuyên: có thể em còn nhỏ nên chưa xác định rõ, có thể em có thể đang ở giai đoạn bối rối, có thể em chưa tiếp xúc nhiều với người khác giới, có thể đó chỉ là cảm xúc nhất thời... chỉ nhằm giảm xuống mức thấp nhất khả năng khách hàng có thể là người đồng tính. Và thường chỉ chốt lại, “nhưng nếu trong trường hợp không mong muốn nhất, em là người đồng tính thì cũng đừng mặc cảm...” 

Việc đẩy “đồng tính về “khả năng xấu nhất” này còn thể hiện một quan điểm khác mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau: Chủ nghĩa độc tôn dị tính – “Đông là đúng?”

Phần 1 | Phần 2 | Phần 3


Comments